Nhà văn Vũ Thị Thường, tên khai sinh là Lê Kim Nga, (1930 - ).
Quê quán: Tả Thanh Oai, xã Đại Thanh, huyện Thường Tín, Hà Nội.
Bà là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Nhà nước về văn học-nghệ thuật năm 2007.
Bà là vợ nhà thơ Chế Lan Viên và là mẹ nhà thơ Phan Thị Vàng Anh.
Trong kháng chiến chống Pháp, Vũ Thị Thường là cán bộ công đoàn, rồi cán bộ hội phụ nữ huyện, hoạt động ở Thái Bình. Từ 1958 đến 1961, chị làm báo ở Kiến An. Từ 1957 Vũ Thị Thường bắt đầu viết văn và năm 1959, chị được cử đi dự trại viết của Hội Nhà văn Việt Nam. 1962 - 1963, chị học Trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ do Hội Nhà văn tổ chức. Từ 1961, chị lần lượt công tác ở báo Văn học, Văn nghệ, tạp chí Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa III). Sau khi đất nước thống nhất, chị cùng gia đình chuyển vào công tác và hoạt động văn học tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm
Những năm gần đây, chị chuyên chú sưu tầm, tuyển chọn Di cảo thơ của chồng (nhà thơ Chế Lan Viên), đã cho xuất bản hai tập: Di cảo I (1994) và Di cảo II (1995).
Quê quán: Tả Thanh Oai, xã Đại Thanh, huyện Thường Tín, Hà Nội.
Bà là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Nhà nước về văn học-nghệ thuật năm 2007.
Bà là vợ nhà thơ Chế Lan Viên và là mẹ nhà thơ Phan Thị Vàng Anh.
Trong kháng chiến chống Pháp, Vũ Thị Thường là cán bộ công đoàn, rồi cán bộ hội phụ nữ huyện, hoạt động ở Thái Bình. Từ 1958 đến 1961, chị làm báo ở Kiến An. Từ 1957 Vũ Thị Thường bắt đầu viết văn và năm 1959, chị được cử đi dự trại viết của Hội Nhà văn Việt Nam. 1962 - 1963, chị học Trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ do Hội Nhà văn tổ chức. Từ 1961, chị lần lượt công tác ở báo Văn học, Văn nghệ, tạp chí Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa III). Sau khi đất nước thống nhất, chị cùng gia đình chuyển vào công tác và hoạt động văn học tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm
- Cái hom giỏ (truyện ngắn, 1959);
- Gánh vác (truyện ngắn, 1963);
- Hai chị em (truyện ngắn, 1965);
- Vợ chồng ông lão chăn vịt (truyện ngắn, 1973);
- Câu chuyện bắt đầu từ những đứa trẻ (truyện ngắn, 1977);
- Vịt chị, vịt em (truyện cho thiếu nhi, 1983);
- An Tư (kịch lịch sử, 1985).
Những năm gần đây, chị chuyên chú sưu tầm, tuyển chọn Di cảo thơ của chồng (nhà thơ Chế Lan Viên), đã cho xuất bản hai tập: Di cảo I (1994) và Di cảo II (1995).